Thứ Năm, 27 tháng 1, 2011

PHƯƠNG THỨC DUY NHẤT

PHƯƠNG THỨC DUY NHẤT
Billy Graham
Tại sao Cơ đốc giáo khác biệt với từng tôn giáo khác trên thế giới như vậy chứ?
Câu trả lời không tựu trung vào một chương trình cho cuộc sống, mà tựu trung vào Thân Vị của Đức Chúa Jêsus Christ: Chúa Jêsus, Đức Chúa Con, và là Ngôi Hai trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời.
Ngày nay có nhiều người xưng nhận thật là khác nhau. Có người cho rằng Chúa Jêsus là tạo vật thiêng liêng đầu tiên, và không phải là Đức Chúa Trời vĩnh hằng. Nhưng chúng ta dạn dĩ nói chắc như sứ đồ Phierơ: “Ngài là Đấng Christ, con Đức Chúa Trời hằng sống” (Mathiơ 16.16).
Tước hiệu “Đấng Christ” có nghĩa là “Đấng Chịu Xức Dầu”. Theo từ ngữ Hy lạp, nó có ý nghĩa của từ ngữ Hy bá lai “Đấng Mêsi” – “Đấng Chịu Xức Dầu” mà Đức Chúa Trời đã sai đến để giải cứu dân sự Ngài. Phierơ và các tín hữu của Hội thánh Cơ đốc đầu tiên đều công nhận Chúa Jêsus là Đấng Mêsi đã được hứa cho trong Cựu Ước. Phần lịch sử thế giới của họ là một sự thất vọng và rất chán chường. Đấng Mêsi được hứa cho đã chiếu sáng như một ngọn hải đăng trong bóng tối tăm, và sự sáng của Ngài không hề mờ tối: “Trong Ngài có sự sống, sự sống là sự sáng của loài người… Sự sáng nầy là sự sáng thật, khi đến thế gian soi sáng mọi người” (Giăng 1.4, 9).
Ngày nay, khi các nhà lãnh đạo thế giới đang vật vã tranh đấu với nhiều vấn nạn chồng chất, tình trạng tối tăm và đầy đe doạ nầy làm nổi bật sự sáng láng của Đấng từng tuyên bố: “Ta là sự sáng của thế gian; người nào theo ta, chẳng đi trong nơi tối tăm, nhưng có ánh sáng của sự sống” (Giăng 8.12).
Ngài là “Chiên con của Đức Chúa Trời, là Đấng cất tội lỗi thế gian đi” (Giăng 1.29).
Trong chức vụ truyền giáo của tôi, tôi chưa hề cảm thấy có nhu cần phải “sửa Chúa Jêsus lại cho thích hợp” với nhiều người và nhiều quốc tịch, văn hoá, sắc tộc hay chủng tộc khác nhau mà tôi từng giảng đạo cho họ. Tôi ra sức dùng những minh hoạ hay nhấn mạnh các lẽ thật nào giúp cho khán thính giả hiểu rõ được Tin Lành hơn theo ánh sáng văn hoá vốn có của họ.
Nhưng các lẽ thật quan trọng của Tin Lành không hề thay đổi. Các sự kiện như: ra đời bởi nữ đồng trinh, đời sống không tội lỗi, sự chết có tính cách hy sinh và thay thế, sự sống lại và sự thăng thiên ngồi bên hữu Đức Chúa Cha, và niềm hy vọng vinh hiển về sự Tái lâm của Ngài không hề phai nhạt hay bị bóp méo theo chiều kích nào khác được.
Chúa Jêsus là Đấng Christ duy nhất; Ngài cũng là: “Đức Chúa Trời, Chúa và Cứu Chúa của chúng ta”. Đây là chân lý: chính Đức Chúa Trời đã giáng xuống trong Thân Vị của Con độc sanh của Ngài. Sự hoá thân thành xác thịt và thần tính trọn vẹn của Chúa Jêsus là những hòn đá góc của đức tin Cơ đốc.
Lẽ thật quan trọng nầy đã được nhấn mạnh xuyên suốt Tân Ước. Giăng bắt đầu sách Tin Lành của ông: “Ban đầu có Ngôi Lời…” (Giăng 1.1). Chữ “Ngôi Lời” trong tiếng Hy lạp, được dịch là “đạo”, người Hy bá lai và người Hy lạp đều hiểu như vậy. Giăng nói tiếp: “Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời… Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật” (Giăng 1.1, 14).
Đấng Christ hiện hữu từ đời đời cho đến đời đời, vì Ngài chính là Đức Chúa Trời trọn vẹn. Kinh Thánh chép: “Ấy chính Ngài là hình ảnh của Đức Chúa Trời không thấy được, là Đấng sanh ra đầu hết thảy mọi vật dựng nên. Vì muôn vật đã được dựng nên trong Ngài… Vì chưng Đức Chúa Trời đã vui lòng khiến mọi sự đầy dẫy của mình chứa trong Ngài” (Côlôse 1.15-16, 19). Mathiơ thuật lại cho chúng ta biết sự giáng sinh của Chúa Jêsus và ông nói: “Mọi việc đã xảy ra như vậy, để cho ứng nghiệm lời Chúa đã dùng đấng tiên tri mà phán rằng: Nầy, một gái đồng trinh sẽ chịu thai, và sanh một con trai, Rồi người ta sẽ đặt tên con trai đó là Em-ma-nu-ên; nghĩa là: Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta” (Mathiơ 1.22-23).
Chính Chúa Jêsus thường làm chứng về bổn tánh thiêng liêng của Ngài. Ngài tuyên bố: “trước khi chưa có Ápraham, đã có ta” (Giăng 8.58). Chúa Jêsus phán: “Ta với Cha là một” (Giăng 10.30). Hơn thế nữa, Chúa Jêsus đã tỏ ra quyền phép làm ra mọi việc mà chỉ có Đức Chúa Trời mới có quyền làm. Bản án nghịch lại Ngài khi bị thử thách, đó là: “vì hắn tự xưng là Con Đức Chúa Trời” (Giăng 19.7); và khi người ta hỏi có phải Ngài là Con Đức Chúa Trời hay không!?! Ngài đáp: “Chính các ngươi nói ta là Con Ngài” (Luca 22.70).
Ngài đã đưa ra minh chứng nào cho thấy Ngài chính là Đức Chúa Trời trong thân thể con người?
Thứ nhất, có minh chứng về đời sống trọn vẹn của Ngài. Ngài đã hỏi: “Trong các ngươi có ai bắt ta thú tội được chăng?” (Giăng 8.46) – và chẳng có ai dám trả lời vì đời sống Ngài là trọn lành. Ngài sống không tì vít chi hết, Ngài: “bị thử thách trong mọi việc cũng như chúng ta, song chẳng phạm tội” (Hêbơrơ 4.15).
Thứ hai, có bằng chứng nơi quyền phép của Ngài. Quyền phép của Ngài là quyền phép của Đức Chúa Trời Toàn Năng. Ngài có quyền quở bão trên biển Galilê phải yên lặng (Mathiơ 8.23-27; Mác 4.35-41; Luca 8.22-25). Ngài đã làm cho kẻ chết phải sống lại, chữa lành người đau, ban ánh sáng cho người mù, và khiến kẻ què đi được (Mathiơ 8.1-3; Mác 1.40 – 2.12; Luca 7.12-15). Các phép lạ của Ngài là bằng chứng cho sự thật Ngài là Chúa của mọi loài thọ tạo: “Vì muôn vật đã được dựng nên trong Ngài… Ngài có trước muôn vật, và muôn vật đứng vững trong Ngài” (Côlôse 1.16-17).
Thứ ba, có bằng chứng về lời tiên tri được ứng nghiệm. Hàng trăm năm trước khi Ngài giáng sinh, các tiên tri của Cựu Ước đã nói trước về địa điểm, nơi Ngài giáng sinh (Michê 5.1) và kiểu cách sự chết và sự chôn của Ngài (Thi Thiên 22; Êsai 53). Còn nhiều chi tiết không thể tính được về đời sống của Ngài đã được các tiên tri loan báo trước, và trong từng trường hợp các lời tiên tri nầy đều đã ứng nghiệm.
Thứ tư, có bằng chứng về sự sống lại của Ngài từ kẻ chết. Đức Chúa Jêsus Christ: “theo thần linh của thánh đức, thì bởi sự sống lại của Ngài từ trong kẻ chết, được tỏ ra là Con Đức Chúa Trời có quyền phép, tức là Đức Chúa Jêsus Christ, Chúa chúng ta” (Rôma 1.4). Những người sáng lập các tôn giáo phi Cơ đốc trên thế giới đều đã qua đời và đã được chôn cất. Còn Đấng Christ thì hằng sống! Sự sống lại của Ngài là một sự thật! Ngôi mộ của Ngài hoàn toàn trống không.
Thứ năm, có minh chứng về những đời sống đã được biến đổi. Chỉ có Đấng Christ, Con thiêng liêng của Đức Chúa Trời, mới có quyền phép làm thay đổi lòng người. Kinh Thánh chép: “Nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới” (II Côrinhtô 5.17).
Phải, Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng đã phán Ngài tự hữu hằng hữu: là chính Đức Chúa Trời trong loài xác thịt. Đây là lẽ thật quan trọng ủng hộ thực tại ơn cứu rỗi của chúng ta. Chỉ có Đấng Cứu Thế thiêng liêng mới chịu chết như một hy sinh trọn vẹn vì cớ tội lỗi của chúng ta. Chỉ có Chúa thiêng liêng mới có thể nói cho chúng ta biết chúng ta nên sinh sống như thế nào! Chỉ có Con Đức Chúa Trời hằng sống và đã thăng thiên về trời mới xứng đáng cho sự thờ phượng và phục vụ của chúng ta mà thôi!
Bởi đức tin Chúa Jêsus đã trở thành Chúa và Cứu Chúa của chúng ta. Hết thảy quyền phép ở trên trời và dưới đất đã giao cho Ngài (Mathiơ 28.18). Hệ thống thế gian gian ác nầy dù không công nhận địa vị Chủ Tể của Ngài; hệ thống ấy vẫn còn ở trong quyền lực đời đời của Satan (Êphêsô 2.2). Song người nào có Chúa Jêsus ngự vào đều có uy quyền thắng hơn ma quỷ cùng quỷ sứ nó. Sứ đồ Giăng tuyên bố: “Đấng ở trong các con là lớn hơn kẻ ở trong thế gian” (I Giăng 4.4).
Vì Chúa Jêsus là Đấng Cứu Thế, Ngài cứu chúng ta ra khỏi án phạt của tội lỗi (Mathiơ 1.21). vì Chúa Jêsus là Chúa, Ngài ban cho chúng ta quyền phép thắng hơn tội lỗi khi mỗi ngày chúng ta cùng đồng đi với Ngài (Hêbơrơ 7.25). Và một ngày kia Ngài sẽ cất chúng ta đi với Ngài. Chỉ vì Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời và chỉ khi nào chúng ta xưng Ngài là Chúa và Cứu Chúa, Ngài ban cho, và chúng ta nhận lãnh, sự bảo đảm và hy vọng phước hạnh nầy (Rôma 10.9).
Làm sao chúng ta nhìn biết lẽ thật nói về Đức Chúa Trời? Liệu tôn giáo có phải là suy diễn theo quan điểm cá nhân của con người không? Kinh Thánh phán “Không”! Kinh Thánh cho chúng ta biết chúng ta có thể nhìn biết lẽ thật – vì Đức Chúa Trời đã bày tỏ chính mình Ngài ra cho chúng ta.
Kể từ loài người sa ngã trong vườn Êđen, Đức Chúa Trời cứ tiếp tục bày tỏ chính mình Ngài qua lịch sử. Đức Chúa Trời đã chọn một người, là Ápraham, ông đã trở thành một dân lớn. Đức Chúa Trời đã giải phóng tuyển dân Ngài ra khỏi Aicập cách lạ lùng. Dưới quyền lãnh đạo của Môise dân sự đã băng qua Biển Đỏ. Đức Chúa Trời đã ban cho họ Mười Điều Răn, và Ngài đã ban cho các tiên tri Israel những lời tiên tri do Ngài cảm thúc rất đáng tin cách tuyệt đối.
Nhưng hay hơn hết mọi sự ấy, Đức Chúa Trời đã tự tỏ mình Ngài ra trong Thân Vị của Con Ngài, là Đức Chúa Jêsus Christ: “Chẳng hề ai thấy Đức Chúa Trời; chỉ Con một ở trong lòng Cha, là Đấng đã giải bày Cha cho chúng ta biết” (Giăng 1.18). Ngài khẳng định rằng Chúa Jêsus là Đức Chúa Con bởi các phép lạ của Ngài, và bởi sự sống lại từ kẻ chết của Ngài (Luca 42.44-48; Công vụ các sứ đồ 2.32).
Lời thành văn của Đức Chúa Trời đã được biên soạn dưới sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh, là Đấng đã gìn giữ các trước giả từ việc truyền đạt mặc khải của Đức Chúa Trời trong các tác phẩm của họ hầu cho cưu mang chính xác mọi điều Đức Chúa Trời muốn họ phải ghi chép lại: “Trước hết, phải biết rõ rằng chẳng có lời tiên tri nào trong Kinh Thánh lấy ý riêng giải nghĩa được. Vì chẳng hề có lời tiên tri nào là bởi ý một người nào mà ra, nhưng ấy là bởi Đức Thánh Linh cảm động mà người ta đã nói bởi Đức Chúa Trời” (II Phierơ 1.20-21). Dù các trước giả viết Kinh Thánh là con người trải qua nhiều thế đại, Đức Chúa Trời dám bảo đảm rằng lời lẽ và tư tưởng đã được cảm thúc và ghi lại thật chính xác y như Ngài đã dự trù: “Cả Kinh Thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình, hầu cho người thuộc về Đức Chúa Trời được trọn vẹn và sắm sẵn để làm mọi việc lành” (II Timôthê 3.16-17).
Vì Kinh Thánh là Lời của Đức Chúa Trời đã được cảm thúc, Kinh Thánh không mâu thuẫn với chính mình hoặc dạy dỗ sai lạc – vì Đức Chúa Trời không thể nói dối. Chúng ta không thể hiểu hết từng chi tiết của Kinh Thánh, nhưng chúng ta phải nhớ luôn rằng đó là Lời của Đức Chúa Trời chớ không phải là ý tưởng hay quan niệm của con người.
Chúa Jêsus thường trưng dẫn kinh Cựu Ước và nói rõ ràng đấy là Lời của Đức Chúa Trời đã được Ngài cảm thúc. Chúng ta là những người nghe theo Đấng Christ phải có nhận định giống như Chúa Jêsus đã nhận định về Kinh Thánh. Lời của Đức Chúa Trời có quyền phép làm thay đổi đời sống (I Côrinhtô 2.1-5).
Đức Chúa Trời đã hứa chúc phước cho Lời của Ngài. Hết lúc nầy sang lúc khác trong chức vụ của tôi, tôi đã trưng dẫn một câu Kinh Thánh trong một bài giảng – có khi không có soạn trước – và sau đó có người đến nói với tôi chính câu Kinh Thánh ấy Đức Thánh Linh đã sử dụng khiến cho người ấy phải tin Chúa: “Lời ta há chẳng như lửa, như búa đập vỡ đá sao? Đức Giê-hô-va phán vậy” (Giêrêmi 23.29).
Một đêm trăng sáng trên đồi núi California, tôi ngồi một mình cùng với quyển Kinh Thánh. Tôi đặt quyển Kinh Thánh mở ra trên một cành cây rồi cầu nguyện: “Ôi, lạy Chúa, con không hiểu hết mọi sự trong Quyển Sách nầy, nhưng bởi đức tin con tiếp nhận Quyển Sách nầy là Lời của Đức Chúa Trời hằng sống”. Từ giờ phút đó trở đi tôi chưa hề hồ nghi Kinh Thánh là Lời của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã khẳng định điều nầy với tôi, như tôi đã chứng kiến quyền phép của Lời Đức Chúa Trời đã tác động trong đời sống của nhiều người.
Sự kêu gọi và quyền phép của chúng ta đều đến từ Lời Đức Chúa Trời không hề sai lạc – là Kinh Thánh. Chính Chúa Jêsus đã được tỏ ra trong Kinh Thánh. Chúng ta tin theo Ngài; chúng ta tin cậy Ngài; chúng ta rao giảng Ngài là Cứu Chúa; chúng ta xưng nhận Ngài trước mặt nhiều người khác Ngài là Chúa chúng ta. Hôm qua, ngày nay và cho đến đời đời Ngài không hề thay đổi (Hêbơrơ 3.8).
Đó là nền tảng của chân lý mà chúng ta đang rao giảng. Đó là lý do tại sao chúng ta luôn vui mừng!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét